Đất trời, non nước, Đảo quốc Vanuatu, kỳ 2. Thuỵ Miên.
Đất trời, non nước, Đảo quốc Vanuatu, kỳ 2. Thuỵ Miên.
Thành phố
Port Vila và chợ bán trái cây
Ngày hôm sau, thứ sáu 21/11/08. Chúng
tôi ra phố để quan sát sinh hoạt của thành phố. Trước hết chúng tôi đi thăm
quan một vài dãy phố, người du khách đông nghẹt, chen lẫn với người dân bản xứ.
Cách dáng đi đứng của khách bộ hành thong thả. Các tòa nhà cao vài ba tầng, Các
ngân hàng như ANZ, Westpac, chiếm vị trí ở trung tâm thành phố, các tiệm bán
quần áo, shopping giống như ở nước Úc, bót cảnh sát, tòa Đại xứ Úc nằm phía
trên đồi với lá cờ Úc đang vẫy bay trong gió như chào đón chúng tôi, người dân
Úc đến du lịch nơi đây. Các tiệm Tàu bán thực phẩm Á châu, quần áo, và đồ gia
dụng rất lớn. Chen lẫn với các nhà hàng nằm dọc theo các phố chính. Thỉnh
thoảng chúng tôi có trông thấy người nói tiếng Việt, giọng miền bắc đi ngang
qua, nhìn chúng tôi thân thiện như muốn nói rằng chúng ta là người đồng hương
phải không. Thành phố tuy đẹp và đầy nét tây phương nhưng đi chẳng mấy chốc là
hết phố chính. Thành phố Port Vila thuộc đảo Êfatê, nó nằm trong vịnh Mele Bay.
Dân số khoảng 40,000 người, với diện tích của đảo rộng khoảng 900km2. Êfatê là
hải đảo lớn thứ nhì, sau hải đảo Espiritu Santo.
Thủ tướng là ông Ham Lini và Tổng
thống là ông Kalkot Mataskelekele được dân bầu lên từ năm 2004. Nước Vanuatu
được trao trả độc lập từ ngày 30/7/1980, là một nước theo thể chế Cộng Hòa nằm
trong khối Thịnh Vượng Chung Các Quốc Gia. Với 83 đảo và dân số hiện nay khỏang
220,000 người. Các hải đảo của Vanuatu nằm giữa New Caledonia và Fiji ở nam
Thái bình Dương.
Sau khi dạo quanh một vòng các đường
phố chính. Chúng tôi đi đến chợ bán trái cây, nằm ngay trung tâm của thành phố
Port vila này. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là tại chợ này có thật nhiều loại
rau, củ, trái cây giống như ở Việt nam ta ngày xưa. Các củ sắn mì to được đựng
trong giỏ đan bằng lá dừa, giỏ củ mì có thể cân nặng cả chục kílô, bán với giá
300 tiền Vatu (Vanuatu). Hôm ấy là ngày 21/11/08. Tôi đổi 100$ đô Úc được 7300$
Vatu. Như thế 1$ đô Úc = 73$ Vatu. Đầu óc tôi hôm ấy phải làm việc qúa mức vì
giá tiền, thì mới biết được giá bán các loại rau qủa, trái cây ở đây thật là
qúa rẻ so với giá cả ở bên Úc. Những bó rau muống, rau mùng tơi to, xanh tươi.
Những trái dừa non đầy ắp nước ngọt, cùi ăn rất mềm. Từng xâu cua đá bán với
giá 100$ Vatu, Những con cua dừa to với giá bán 3000$ Vatu. Đu đủ, soài, những
loại chuối to nhỏ bán từng quầy, được bày bán ngay đầu chợ. Phía trong chợ có
vài quán bán cơm với thịt gà, thịt heo, cá. Giữa chợ có hai, ba hàng bán phần
ăn trưa, món ăn thật đặc biệt khiến tôi chú ý vì đông khách. Chỗ bán phần ăn
trưa này đặc biệt vì các phần ăn được gói bằng lá chuối, thức ăn là 1/2 củ
khoai môn, một củ sắn mì, một con cá nhỏ hấp, hay một cái cánh gà, một vài cành
lá rau cải luộc. Chúng được gói lại và giao cho người mua. Tôi thấy người mua
phần ăn ấy, một tay họ đã cầm sẵn một quả dừa gọt vỏ hay một qủa soài chín.
Người bản xứ ở đây ăn uống qúa dễ dãi, không cầu kỳ. Chủ yếu họ ăn và uống nước
dừa là chính, nếu có thêm miếng khoai môn, củ sắn mì là đủ phần ăn trưa. Một
điều lạ nữa là người bán hàng ngoài chợ toàn là đàn bà, họ bế cả con ra ngồi
ngoài chợ để bán hàng cả ngày cả đêm. Họ thật thà, viết giá tiền đặt ở trên
những hàng hóa muốn bán, không trả giá kỳ kèo như ở Úc. Ai thích thì mua, không
thì thôi. Người bản xứ ở đây có màu da đen sậm, tóc quăn, to lớn và khoẻ mạnh,
họ thuộc gốc người Melanesian. Tôi đi quan sát một vòng chợ, chỗ giáp với công
viên, thấy có một bến tàu chở du khách đi qua đảo Iririki, trên bờ có chỗ bán
vé để du khách mua vé, đi dạo chơi bằng máy bay trực thăng. Phía bên kia chợ là
bến xe buýt và bãi đậu của taxi. Nói đến xe buýt, tôi cứ tưởng nó phải to lớn
như ở Úc, nhưng thật ra nó chỉ là loại xe Van, của hãng Toyota gắn thêm ghế,
như hồi chúng tôi chở người đi hái trái cây vào những năm1984- 1987. Các chiếc xe bus này mang bảng số
bắt đầu bằng chữ B rồi đến con số, thí dụ như: B2450. Khác với xe taxi, mang
bảng số bắt đầu bằng chữ T. Hầu hết những người lái xe là đàn ông. Các tài xế
chào nhau và trao đổi chuyện trò với nhau bằng cách giơ bàn tay và ra hiệu bằng
ngón tay, khi họ gặp nhau theo hướng ngược chiều. Trên đường phố, ngoài số
khách du lịch, tôi còn thấy nhiều thanh niên bản xứ ngồi ở các công viên, tay
cầm trái dừa để uống nước và khi uống hết nước thì họ đập vỡ trái dừa để ăn cùi
dừa. Có khi gặp họ ngồi trên các vỉa hè để nhìn ngắm người đi phố, họ không có
vẻ gì là thành phần công dân xấu hay dân trộm cắp và có lẽ họ giống như trong
câu chuyện Phúc âm nói về những người thợ làm vườn. Họ ngồi chơi giữa phố chợ,
giữa đường vì không có ai mướn họ, hoặc có thể vì họ chẳng muốn làm. Ăn là bao
nhiêu mà làm chi cho mệt, chết có mang theo được đâu mà phải vất vả quá sức như
vậy, củ khoai môn, qủa dừa cũng thành bữa cơm. Họ có thể ăn sống chứ chẳng cần
luộc chín, với tay hái một trái soài mọc sẵn bên vệ đường, bẻ một vài trái dứa,
thế là no bụng. Tối đến muốn thư giãn, thì tìm đến quán “đèn vàng” để uống một
vài chén Kava, loại nước biến chế từ một loại rễ cây, lá nó giống như lá tiêu,
lá ăn trầu, lá trầu ông, trầu bà. Nước đục như nước bùn, uống vào thấy vị gần
giống cây sắn dây, nhưng chỉ trong giây lát, ta sẽ cảm thấy tê môi, tê lưỡi.
Anh em chúng tôi cũng mua về 1 lít Kavagía 1000$ Vatu, để uống cho gọi là giao hữu với dân Vanuatu. Kava uống
có cái hay của nó là làm con người cảm thấy thoải mái, bắp thịt thư giãn, nhưng
chưa đủ mạnh để làm anh em chúng tôi say, nên chúng tôi đành mượn thêm chai
rượu Cognac, để ru mình vào giấc ngủ say đêm hôm ấy.
Thời tiết ở
bên Port Vila này, gần giống như Sài Gòn, độ ẩm rất cao, trung bình từ 43 đến
65%. Trong
phòng ngủ phải mở máy lạnh thì mới thấy dễ chịu giống như ở Melbourne.
Thế nhưng, chúng tôi đâu có ngờ vì mở
máy lạnh cả đêm, nên độ ẩm cũng bị tụt xuống thấp, nên máy làm nước lạnh không
có đủ độ ẩm để làm đầy bình nước lạnh cho ngày hôm sau. Cái máy làm nước lạnh
và nóng này giống như cái máy lọc nước, làm thành nước lạnh và nóng như ở bên
Úc, chỉ khác một điều là nó tự hút không khí có sẵn độ ẩm của hơi nước rồi từ
đó ép hơi nước thành nước, lọc qua bộ phận lọc nước rồi chuyển qua hệ thống làm
lạnh hoặc chuyển qua bộ phận đun nóng nước, chứ không phải bắt ống nước hay
chứa nước từ trong bình đựng nước như ở bên Úc. Cái máy lọc nước này được chế
tạo từ một công ty bên Úc, để cho các nước vùng nhiệt đới xử dụng. Theo tôi thì
ta cứ việc đun nước sôi mà dùng nếu cần nước nóng, hay để lạnh rồi lọc nước để
uống là xong. Hệ thống nước uống được cung cấp tận nhà. Nhưng hệ thống gas thì
vẫn còn xài bình gas. Hệ thống rác, nói chung thì người dân tập chung rác lại
một địa điểm của từng khu và xe rác sẽ đến hốt rác hàng tuần, vì khí hậu nóng
nên ruồi bu, kiến đỗ, tạo mùi hôi tanh khó có thể tránh được.
Nghĩa trang
của thành phố Port Vila
Chúng tôi đến thăm Vanuatu vào tháng
11, tháng cầu cho các linh hồn. Chính vì thế mà chúng tôi quyết định đi thăm
viếng nghĩa trang của thành phố Vanuatu, nơi chôn cất những bậc tiền nhân Việt
Nam đã đến Vanuatu vào thời người Pháp mộ phu, năm 1920. Trước hết là để tỏ
lòng ngưỡng phục các đấng bậc tiền nhân đã hy sinh vì tương lai con cháu, có
nhiều người đã nằm xuống vì kiệt sức, hay bị đánh đập tàn nhẫn bởi bọn cai
người Pháp, hoặc bị xử tử vì dám chống lại bất công, đòi quyền tự do và công lý
cho dân ta thời ấy. Sau nữa để đọc kinh và thắp nén nhang cho những ngôi mộ mà
giờ đây con cháu không còn ở dây nữa để chăm sóc mộ phần. Chúng tôi có hỏi thăm
người cháu, nhưng vì bận rộn công việc nên anh ta cũng không biết nơi chôn cất
những người Việt thời Pháp mộ phu từ miền bắc đến làm việc tại Vanuatu. Cũng
may, người cháu của chúng tôi có quen với con của một gia đinh, mà ông bà ta đã
được sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Ông bà Nguyễn văn Đại rất vui mừng
và ông ta đã nhiệt tình hướng dẫn chúng tôi, sáng ngày hôm sau đến nghĩa trang,
nơi chôn cất những người Việt Nam đã đến làm việc và bỏ mình tại xứ Vanuatu
này.
Nghĩa trang nằm trong một khu đất rộng
rãi, yên tịnh, cây cối chung quanh nghĩa trang xanh tươi. Giữa nghĩa trang có
một cây đa cổ thụ và gần đó có một ngôi nhà dành cho nhân viên chăm sóc nghĩa
trang. Nghĩa trang chia thành từng khu, khu dành cho người Pháp, và khu dành
chôn người Việt Nam được vây quanh bằng hàng rào gỗ, để ngăn cản súc vật vào ăn
cỏ và làm hư hại mộ phần. Tại nơi này, chúng tôi tập họp tại khán đài, đọc
kinh, thắp nhang và dâng phó các linh hồn đã yên nghỉ nơi đây trong tay Chúa.
Chúng tôi được bác Đại hướng dẫn đến mộ phần của ông cụ thân sinh ra bác, đến
thăm viếng các mộ phần của gia tộc họ Đinh, được chôn cất theo một dãy dài dọc
theo hàng rào của phía sau khán đài. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng được chăm sóc
rất kỹ lưỡng và được chọn trên một khoảng đất trống tuyệt đẹp, đầy tiện lợi về
phong thủy, có lẽ vì thế mà con cháu của các cụ, bây giờ làm ăn trở nên phát
đạt, giàu có. Chúng tôi được bác Đại hướng dẫn qua phía đối diện khu nghĩa
trang của người Việt Nam. Nằm ngay cạnh đường đi chính giữa của nghĩa trang có một
ngôi mộ chôn tập thể của sáu người Việt Nam, đã anh dũng chết vì dám đứng lên
đòi lại tự do và công lý cho người phu mộ thời ấy. Chúng tôi thấy trên bảng mộ
bia có ghi dấu thánh giá, tò mò nhưng chưa kịp hỏi, thì chúng tôi đã được bác
Đại giải thích lý do, vì trước khi chết 6 người này đã theo đạo Công giáo và
được một cha người Pháp rửa tội trước khi bị hành hình. Không khi của nghĩa
trang buồn, lòng chúng tôi như se lại, chợt thương cho thân phận của chính
mình, một mai rồi cũng được chôn cất tại xứ lạ quê người trên đất Úc.
Bãi biển Eton
Sau khi đã thăm viếng nghĩa trang vào
buổi sáng. Chúng tôi đi tắm biển Eton và buổi trưa ngày hôm thứ bảy 22/11/08 .
Bãi biển Eton nằm về phía bắc của đảo Êfatê. Cách độ 1 giờ lái xe. Con đường
tráng nhựa từ nhà của người cháu chúng tôi chẳng bao lâu đã được nối tiếp bằng
con đường đất chạy kéo dài đến tận bãi biển. Nó chạy băng qua những khu rừng,
những cánh đồng cỏ xanh tươi, những đồn điền trồng dừa bát ngát, những khu làng
mạc của người bản xứ. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp một vài chiếc xe của người bản
xứ đi ngược chiều, họ vẫy tay chào chúng tôi một cách thân thiện.
Bãi biển thiên nhiên và hoang sơ như
chưa được khai thác đúng mức cho du khách giống như kiểu ở Việt Nam. Cũng có
những băng ghế bằng gỗ, nhà lợp lá dùng để trú mưa, nhà tắm, nhà vệ sinh, và
những bóng cây rợp mát. Những bãi cát mịn, đủ chỗ làm sân cho người ưa thích
môn bóng đá làm nơi đá banh. Mọi người đều xuống tắm vì nước rất ấm, chỉ trừ
mình tôi, ngồi trên bờ trông giữ đồ đạc. Bãi biển này, có suối nước ngọt chảy
từ trong đất liền chảy ra biển. Nó tạo thành những vùng nước rộng to, đủ để cho
người ta tắm nước suối sau khi tắm biển. Người dân trong làng, cắt cử người giữ
vệ sinh bãi biển này rất sạch sẽ. Họ hiền hòa, trò chuyện vui vẻ với chúng tôi như
người bạn thân quen từ lâu, làm chúng tôi rất thán phục. Sau một buổi tắm biển
và hưởng gió trong sạch, chúng tôi lên xe ra về để kịp giờ đi lễ chiều thứ bảy
lúc sáu giờ chiều. Nhà thờ nằm gần khu phố. Thánh lễ do cha người bản xứ dâng
lễ bằng tiếng Anh. Nhà thờ thô sơ mái lợp bằng tôn, đang được sơn lại phía bên
trong. Tôi tò mò đếm cả trẻ em lẫn người lớn, tính cả Cha xứ và 2 bà sơ được
gần 50 người. Nghe người cháu tôi nói lễ ngày Chúa nhật thì đông lắm nhưng cha
làm một lễ bằng tiếng Pháp và một lễ bằng tiếng Bislama, là thứ tiếng trộn lẫn
giữa tiếng của người bản xứ và tiếng Anh. Theo số thông kê của web site:
Infoplease.com thì Công giáo chiếm 13% dân số, khoảng gần 20,000 tín hữu. và vị
Giám mục bản xứ đầu tiên là Giám mục Visi-Michel. Ngài chết ngày 20/5/2007,
đúng vào ngày lễ Chúa lên trời. Tại đây tôi gặp sơ Xinh, người sinh đẻ tại
Noumea và đi tu năm 1965, nhà dòng chính của sơ tạithành phố Port Vila, xứ Vanuatu này. Hình
như, sơ sợ chúng tôi chê nhà thờ thô sơ, trông có vẻ như ở vùng kinh tế mới,
hay ở vùng sâu xa tại Việt Nam, hay vì người dân bản xứ sống đơn sơ, gần gũi
thiên nhiên, sống thanh bình trong một đất nước chậm phát triển, giống như dân
ta hồi xa xưa. Sơ Xinh đã vội nói với chúng tôi rằng:
- Quê hương tôi nghèo lắm! Nhưng Chúa
thương, chưa ai chết vì đói bao giờ cả. Trước đây cũng thế mà bây giờ cũng thế.
Tôi tự hỏi câu nói này mang ý nghĩa
gì, khi sơ nói với chúng tôi như thế? Phải chăng vi ngôi thánh đường cũ kỹ, vì
chúng tôi là người đi du lịch đến từ nước Úc, hay đó chỉ là một câu than thở
của một bà sơ, nhìn con chiên bản xứ sống trong cảnh nghèo nàn, không có việc
làm. Tôi vội cười hòa, đáp lại bằng lời nói chân tình.
- Dù nghèo mà vui, hỏi ai không muốn
yêu đời, phải không sơ.
Chúng tôi chào sơ Xinh và ra về sau
thánh lễ, ăn cơm chiều, uống bia ngồi câu cá ngay đằng sau nhà cho đến khuya,
nhưng chẳng bắt được con cá nào, mặc dù cá to nhảy lên khỏi mặt nước, trước mặt
chúng tôi.
Chúa nhật 23/11/08
Gỏi cá, gà
luộc. Anh
em chúng tôi bàn tính với nhau là hôm nay chúng tôi sẽ nghỉ ngơi ở nhà, tiện
thể người cháu của chúng tôi có nhờ người lái xe buýt mua giùm cho ba con cá
biển và hai con gà chân vàng nuôi trong vườn. Chúng tôi quyết định làm món gỏi
cá và gà luộc cho thức ăn ngày Chú nhật. Món gỏi cá tươi ngon tuyệt, nhân tiện có
hai vợ chồng bác Đại đến thăm chúng tôi, nên mọi người được thưởng thức món gỏi
do anh em chúng tôi đảm trách. Dân nhậu làm đồ nhậu thì còn chê vào đâu được
nữa, thịt cá đã tươi ngon lại thêm đủ loại là như đọt xoài, lá đinh lăng, khế
chua, rau thơm cộng với nước sốt chấm cá rất ngon khiến mọi người được bữa ăn
ngon miệng và chúng tôi uống rượu Cognac đến mềm môi.
Thứ Hai 24/11/08
Thác nước
nhiều tầng.
Hôm nay, chúng tôi lại thuê người lái xe buýt chở chúng tôi về phía Tây Bắc của
Port Vila, để đi thăm thác nước nhiều tầng (Cascades Waterfalls), gần làng Mele
của núi Mt MacDonald. Ngọn núi này cao 647m, nằm ở giữa hòn đảo Êfatê. Vé vào
cổng là 20 đô Úc chomột du khách. Người
kiểm soát dùng mộc để đóng dấu vào cánh tay chúng tôi, sau khi đã nhận được
tiền vào cổng. Đường đi lên thác cheo leo, những cây cóc, cây xoài, cây chuối
mọc hai bên đường đi. Chúng tôi lội băng qua những con suối, nước trong veo,
vượt qua nhiều nơi bằng phẳng với rau lang mọc hoang, lá to và xanh tươi.
Khoảng 20 phút leo dốc chúng tôi đã đến chân thác nước. Cảnh người nối tiếp
theo nhau, nắm dây đi ngược lên thác nước. Hôm nay rất đông người đến thác nước
này, vì có thuyền du lịch chở người từ Sydney đến thăm đảo quốc này. Tôi nhìn
thác nước lòng thấy thèm muốn đi ngược lên đỉnh thác, nhưng lại một lần nữa đôi
chân của tôi lại đình công vì đầu gối của tôi đau nhức. Tôi xin đành làm người
giữ dép cho mọi người, và đứng nhìn lũ trẻ thay phiên nhau nhảy xuống nước, tắm
trong các vũng nước do thác nước tạo thành. Gió mát, cảnh ve kêu trên các cây
phượng mọchoang trên sườn núi, khiến
hồn tôi trở về quá khứ, đi dong chơi trên con đường làng đầy hoa phượng của
những tháng ngày thanh bình, trên quê hương Việt Nam thửa xa xưa. Chiều hôm
nay, chúng tôi muanăm xâu cua, độ hơn
ba chục con, để nấu bún riêu cua. Nhưng vì người cháu chúng tôi đã nhờ bạn bè
mua tôm hùm, cua dừa, nên chúng tôi đành cho cua vào bao gạo, cột miệng bao lại
và thả xuống biển. Chính vì thế mà ngày hôm sau khi kéo bao cua lên, thì hỡi ôi
chúng nó đã chết tự lâu rồi. thế là hụt ăn món bún riêu cua.
Ban biên tập : Trần Văn Minh - Trưởng ban. Ngô trọng Đức - Phụ trách kỹ
thuật
Trần Minh Cảnh – Biên tập viên Vũ Hùng Cường – Biên tập viên
Liên hệ :buichu@buichu.net