Chẳng ai không một
lần có một quê hương. Có thể đó là nơi cất tiếng khóc chào đời trong nghĩa mẹ
tình cha, có thể là nơi tình cờ đặt chân đến và mắc nợ tương giao để không còn
rời xa được nữa…và quê hương đã thấm vào máu thịt con người đến độ đi đến đâu,
người ta vẫn nhận diện ra anh xuất thân từ đâu với tiếng nói, phong tục, tập
quán.
Người Bùi Chu cũng
minh nhiên mang trong mình cái máu của quê hương ấy. Từ Bùi Chu Bắc Việtvới những địa danh Quần Cống, Thức Hóa, Liễu
Đề…cho đến Bùi Chu Hố Nai đã hợp lạc hòa bình một nhóm đồng bào di cư ngày ấy
để thành Bắc Hợp – Tây Lạc – Nam Hòa – Đông Bình của Bùi Chu hôm nay. Những cái
tên mang đầy nét văn hóa và nhân bản, hiếm thấy một quê hương nào có được.
Những cái tên này sống vinh quang hơn ba chục năm nay và hình như giờ đã thế
vào bởi những tên khác có vẻ ‘đạo đức’ hơn như Thánh Tâm, Kytô Vua, Đức Mẹ lên trời,
Giuse. Cái tên có thay đổi, nhưng người Bùi
Chu không thay đổi như địa hình xứ Bùi cũng chưa xoay ngược. Có thể người thế
hệ sau thông thái hơn thế hệ trước như bức phướng chữ Hán, treo ngay cửa phòng
khách nhà xứ của cha cố Điện, do cha già cố Thức tặng lại. Có ba chữ thôi, đọc
theo nôm là “Hoa Tỳ Kế”. Tôi tạm dịch là những tinh hoa của tiền bối được
truyền lại cho thế hệ sau. Ai có dịp vào nhà xứ xưa, khi đi qua cái cổng sắt
thì dòng chữ này đập vào mắt ngay. Ai tổ chức cưới hỏi và có chụp hình tại cửa
nhà xứ cũ chắc còn ghi được hình ảnh bức tranh chữ này.
Ngày ấy tôi không cảm
thấy những ý tứ trong vài chữ nghệch ngoạc này, hơn nữa có biết gì vế chiết tự
tiếng Hán đâu. Ngày nay đầu bạc mới hiểu sâu được ba cái chữ ấy nó thâm thúy
chừng nào. Mỗi lần có dịp về lại quê nhà, vào nhà xứ để tìm xem lại bức phướng
này thì không thấy nữa. Hình như người thời nay đã hóa kiếp cho cái bảng, như
đã xóa mờ hình ảnh ngôi thánh đườngxoắn
ốc đã một thời là nét đặc trưng của Bùi chu. Thì Hoa Tỳ Kế mà lị!
Bùi Chu mình nay đã
khác xưa nhiều. Hoa Tỳ Kế đã trổ bông và tỏa hương ngào ngạt. Mình không còn hình
dung được con đường đất đỏ mù bụi của những năm đoàn người lũ lượt đi bộ vài
chục cây số vào đồng Sông Mây. Những chiếc xe bò lệch kệch từ canh hai để vào
Sông Lạnh đèo về những lẵng be treo lủng lẳng dưới gầm xe đã đi vào chuyện cổ
tích. Những tấm áo vá đụp trăm mảnh, cái quần rách đít và chiếc xe đạp ống
nước, bánh xe độn bằng vải áo giáp Mỹ một thời ‘làm giàu thủ công’ của anh Quy,
anh Khóa, ông Khảm…đã trở thành chuyện vui cho mấy anh nhậu bàn chuyện ngày xửa
ngày xưa. Trong tâm trí của tuổi trẻ hôm nay không có những hình ảnh nước sông
Mây dâng cao và những giải lúa chin vàng ngập tỏm trong nước, phải gặt lúa mò
rồi đưa lên xuồng đẩy tới gò cao tuốt vội, hoặc đập dối để đóng bao mà vác lội
bì bỏm trong bùn cả cây số đưa vào gò cao. Con suối Cầu Hai nay đã tráng nhựa
xóa đi cái cảnh đoàn người hì hụp nửa bơi nửa lặn khi cơn mưa kéo dài không
thoát hết nước.
Lâu lâu về làng, tôi
cứ phải ‘ôn cố tri tân’ mãi mới hình dung ra được những mái tranh ngày nao, hay
những gốc cây bên đường để đoán chừng mình đang ở khu vực nào. Đường làng đã bê
tông hóa cả và người xưa thì kẻ còn người mất. Đám trẻ ngày nào mình gõ đầu học
kinh bổn nay đã là bà ngoại hay ông trùm nữa cũng nên. Vài ông râu ria xồm xoàm
đáng kính, cúi đầu chào khi gặp mình ngoài đường làm mình cũng khoanh tay chào
lại, hóa ra là "bé cái lầm" mấy cụ lại là cái thằng ngày trước đi trộm ổi nhà cha ở cái vườn phía
trước nhà ông trương Đảm và ông cố Hiếu, bị mình bắt quỳ ăn hết chỗ ổi xanh đã
hái mới cho về! Chúng nó còn mang ơn là vì mình không giao chúng nó cho bà bếp
Huỳnh, thế nào cũng lãnh vài cái cán chổi hay bị cáo tội với bố mẹ.
Nhiều thân thương lắm
những kỷ niệm còn vương vấn trong hồn. Những lúc nhớ nhà, tôi thường quay lại
những khúc phim thời dĩ vãng để ngồi cười tủm tỉm một mình. Cả những trò nghịch
ngợm của tuổi thơ cũng thi thoảng thoáng qua làm mái đầu muối tiêu bớt sám bạc
đôi chút. Ấn tượng còn chưa phai với cú do ván cho ông nhang Sinh và bà cụ Tuất
đấy. Không biếtgiờ này trên một góc nào
đó của thiên đàng, các vị có tha tội nghịch dại cho cái đám ‘trẻ không tha già
không thương’ đó không. Chả là các cụ mắt kém, nhưng thường đi nhà thờ từ hơn 3
giờ sáng. Biết được giờ giấc đó, đám giúp lễ cũng dậy sớm và đào mấy cái hố
giữa đường, lót dưới cái sản phẩm của mấy con bò không biết giữ vệ sinh rồi phủ
lá chuối lên, lấp đất như không có gì khác lạ. Xong đâu đó liền núp vào hàng
dâm bụt chờ đợi. Các cụ cứ thản nhiên gậy chống mà bước vào cái bẫy ma quái đó
mà ngã bổ chổng. Thấy các cụ té ngã lăn quay với cái mùi khó chịu vậy, lũ quỷ
con hí hố cười vui khoái trá để nghe tiếng chửi rủa ‘cha tổ bố đứa nào…’
Cái đám qủy nhỏ ngày
ấy, giờ thì đứa làm linh mục, đứa làm bác sĩ, đứa phiêu bạt quê người và có đứa
đã thành người thiên cổ sau đợt pháo kích chợ Bùi Chu.
Mừng trang web Bùi Chu Mến Yêu lên năm, tự nhiên
mình lại cứ moi móc mấy cái chuyện của thế kỷ trước ra mà tám thế này thì làm ô
nhiễm cho bầu khí tươi vui và khang trang của trang báo điện tử mất rồi! Nhưng
chắc chẳng ai chấp nhặt làm gì vì nơi đây, qua trang báo này, người ta gặp lại
những hoài niệm và cả những thăng tiến của dân Bùi Chu. Quê hương ấy hôm nay
không còn biên giới vì nó đã tỏa đi khắp hành tinh, nơi nào cũng có bóng dáng
người dân xứ Bùi với bao tâm trạng vui buồn lẫn lộn nhớ về quê nhà. Tôi không
may mắn biết sự ra đời của Bùi Chu mến yêu. Chỉ nhờ một tình cờ là cách đây hơn
một năm, khi tìm các từ khóa để vào những trang cần thiết thì bắt gặp trang Bùi
Chu. Thế rồi lục lọi thêm mới yết kiến được ngài chủ tịch HSV Trần Văn Minh. Âu
cũng là duyên nợ của trái đất tròn.
Nhân kỷ niệm 5 năm,
tôi xin gửi tới Bùi Chu Mến Yêu một tràng pháo …bông ròn rã để chúc mừng. Cầu
chúc ban biên tập và những nỗ lực của những người tha thiết với Bùi Chu Mến yêu
sẽ ngày càng thăng tiến, hăng hái tô điểm cho món quà tinh thần này thêm hữu
ích. Riêng chúc những người dầy công tốn của cho nhịp cầu thông cảm này, được
sức khỏe dồi dào và thông thái tinh thần…mà thổi tù và cho thật to, thật điệu
nghệ!
Ban biên tập : Trần Văn Minh - Trưởng ban. Ngô trọng Đức - Phụ trách kỹ
thuật
Trần Minh Cảnh – Biên tập viên Vũ Hùng Cường – Biên tập viên
Liên hệ :buichu@buichu.net