Bài Viết Của Lm. PX. Ngô Tôn Huấn
CÓ ĐƯỢC CẦU NGUYỆN VÀ AN TÁNG TRONG NGHĨA TRANG CỦA XỨ ĐẠO NHỮNG AI ĐÃ CHẾT VÌ TỰ TỬ KHÔNG ?
Trước khi trả
lời câu hỏi trên, xin được nói qua về những thay đổi trong giáo lý của
Giáo Hội về việc hỏa táng, (cremation) và cầu nguyện cho những người đã
tự tử chết.
Chắc
mọi tín hữu còn nhớ là trước Công Đồng Vaticanô II (1962-65), Giáo Hội
cấm việc hỏa táng xác người chết vì lý do có bè rối (heresy) kia đã
chống lại niềm tin về sự sống lại của xác kẻ chết như giáo lý Giáo Hội
dạy. Nhóm này đã hô hào đốt xác người chết để thách đố xem Giáo Hội
còn gì nữa để tin vào sự sống lại của xác kẻ chết đã ra tro bụi.. Vì
thế, Giáo Hội đã cấm các tín hữu không được thiêu xác người chết để
không làm cớ cho những kẻ sai lầm nói trên huyênh hoang quảng bá tà
thuyết của chúng. Mặt
khác, từ trước đến nay, Giáo Hội vẫn dạy rằng tự tử chết không những
là tội nghich điều răn thứ Năm, mà còn là một gương xấu to lớn phải
tránh. Cho nên, đã có thời Giáo Hội, đặc biệt ở Viêt Nam trước Công
Đồng Vaticano II, đã cấm cử hành tang lễ cho người tự tử cũng như
không cho an táng trong đất thánh của họ Đạo vì gương xấu tự sát. Nhưng
phải nói ngay là thời đó Giáo Hội cấm vì gương xấu của tội tự sát chứ
không phải vì muốn phán đoán rằng người tự tử đã sa hỏa ngục rồi, nên
không cần cầu nguyện cho họ nữa. Rồi
thời gian trôi qua, bề rối kia cũng tiêu tan, vì không ai tin theo họ
cả, nên từ sau Công Đồng đến nay, Giáo lý mới của Giáo Hội, được Đức cố
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ( nay là Chân Phước ) ký ban hành ngày 11
tháng 10 năm 1992 có những lời dạy đáng chú ý như sau về việc hỏa
táng và an táng kẻ chết vì tự tự. 1- Về việc hỏa táng (cremation) xác kẻ chết: Giáo lý mới mới dạy rằng : “Giáo Hội cho phép hỏa táng, nếu việc này không động đến niềm tin vào sự sống lại của xác kẻ chết”. (x. SGLGHCG, số 2301) Nghĩa
là theo Giáo Hội dạy, thì dù được chôn cất và bị tiêu tan trong lòng
đất hay được hỏa thiêu thành tro bụi, xác kẻ chết vẫn được quyền năng
của Thiên Chúa cho sống lại, kết hợp cùng với linh hồn để hoặc được vào
an nghỉ muôn đời với Thiên Chúa trong Nước Hằng Sống hay bị xa lìa
Thiên Chúa vĩnh viễn trong nơi gọi là hỏa ngục. Do
đó, người tín hữu ngày nay được phép hỏa táng thân nhân đã qua đời hay
đem chôn cất ngoài nghĩa trang như tục lệ đã có từ lâu đời. Nhưng phải
tôn trọng xác chết của thân nhân được mai táng hay được thiêu đốt
thành tro bụi đựng trong các hộp để cất giữ trong gia đình hay ở nơi
nhà thờ nào có nhận cất giữ các hộp tro này. Nghĩa là được hỏa táng
nhưng phải tin xác dù đã ra tro bụi, vẫn sẽ được sống lại như Giáo Hội
dạy. Do đó, phải cất giữ tro của xác được hỏa táng chứ không được đem ra
trải ngoài sông, hồ hay biển cả như những người ngoài Công giáo đã
làm. Vì như vậy, là vô tình chia sẻ niềm tin của những người này cho
rằng con người là hư không nên phải trở về với hư vô, để tan biến trong
thiên nhiên vũ trụ, và không còn hy vọng nào về sự sống lại nữa. Đây
là điều nghich với niềm tin của Kitô Giáo dạy phải “tin xác loài người ngày sau sống lại” (dù được chôn cất hay hỏa thiêu), như chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính mỗi ngày Chúa Nhật và Lễ trọng.. 2- Về những người đã tự tử chết: Giáo lý mới của Giáo Hội cũng dạy rằng : “Tự tử là nghịch với tình yêu của Thiên Chúa hằng sống…Nhưng
không nên tuyệt vọng về ơn cứu độ của những người đã tự tử. Thiên Chúa
có thể dành cho họ một cơ hội để sám hối bằng những con đường mà chỉ
mình Ngài biết. Giáo Hội cầu nguyện cho những người đã tìm cách hủy hoại
mạng sống mình.” ( x. SGLGHCG, số 2281, 2283). Như
thế rõ rệt cho thấy là, mặc dù lên án hành vi tự sát hay trợ giúp cho
hành vi này, nhưng Giáo Hội không phán đoán gì về số phận đời đời của
những người tự tử mà chỉ dạy phải cầu nguyện cho họ mà thôi. Có nghĩa là
vẫn phải dành cho họ mọi nghi thức an táng như Thánh lễ ở nhà thờ hay
cầu nguyện ngoài nhà quàn (Funeral Home) và được chôn cất như mọi tín
hữu khác. (việc này các giáo xứ ở Mỹ đang làm. Khi có ai chết thì cha xứ
phải làm lễ chọ họ theo lời yêu cầu của thân nhân, nhưng không được
hỏi lý do chết và từ chối lễ an táng nếu người chết đã tự tử). Sở dĩ
thế, vì không có khoản giáo lý, giáo luật nào cấm đem xác người tự tử
vào nhà thờ để cầu nguyện hoặc cấm chôn cất xác đó ở nghĩa trang Công
giáo. Do
đó, nơi nào cấm đoán như vậy là đã đi ngược lại với giáo lý của Giáo
Hôi dạy phải cầu nguyện cho những người tự sát như đã trích dẫn ở trên.
Cầu nguyện cho họ có nghĩa là mình không biết Chúa đã phán đoán họ ra
sao, nên chỉ biết phó thác họ cho lòng nhân từ , khoan dung vô biên của
Chúa mà thôi. Đây là quan điểm thần học quân bình hơn về phần rỗi của
kẻ chết, và cách riêng của những người tự sát , vì chỉ một mình Thiên
Chúa biết rõ lý do đã thức đẩy họ đến chỗ tự tử. Chúng ta tin tưởng
lòng nhân từ và phán đoán công minh của Thiên Chúa dành cho những người
chẳng may đã tự chọn hay bị thức đẩy vào con đường tự hủy hoại đời
mình, nhất là thông cảm và nâng đỡ cho thân nhân nhân còn sống của
những người đã tự tử chết. Trong tang lễ, linh mục cũng phải tránh không
nên nói gì về nguyên nhân cái chết mà chỉ nhấn mạnh đến lòng thương xót
vô biên và phán đoán công minh của Chúa để phó thác người đã chết cho
lòng thương xót của Chúa mà thôi. Tuy
nhiên, giáo luật của Giáo Hội có cấm việc cử hành tang lễ theo nghi
thức của Giáo Hội cho những ai rơi vào một trong những trường hợp sau
đây: 1- Những
người lạc giáo (heretics) tức những người cố chấp phủ nhận hay nghi ngờ
một chân lý đức tin phải tin, sau khi đã được rửa tội trong Giáo Hội
Công giáo 2- Những
người bội giáo (apostates) là những người chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô
Giáo và ngoan có không chịu thay đổi sai lầm của mình. 3- Những
người ly giáo (schismatics) là những người không còn muốn tùng phục Đức
Thánh Cha và những vị thay mặt ngài coi sóc tín hữu trong toàn Giáo
Hội.Nghĩa là không còn muốn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo do Đức
Thánh Cha là Chủ Chăn duy nhất có sứ mệnh chăn dắt “các chiên của Thầy”
thay mặt cho Chúa Kitô trên trần thế này. 4- Những người chọn hỏa táng thi hài của mình vì những lý do nghịch với đức tin Kitô Giáo. (không tin xác ngày sau sống lại) Nếu
những người nói trên không tỏ dấu ăn năn thống hối nào trước khi chết
thì phải từ chối an táng họ theo nghi thức của Giáo Hội. ( x.giáo luật số 1184). Có nghĩa là không được cử hành lẽ tang theo nghi thức của Giáo Hội. Ngoài
những trường hợp trên , không có khoản giáo luật hay giáo lý nào cấm cử
hành tang lễ cho người tự tử cũng như cấm chôn xác đó trong nghĩa trang
công giáo. Như vậy, ai cấm đoán như trên là đã tự ban hành luật riêng của mình, trái ngược với giáo lý và giáo luật của Giáo Hội. Tại sao người ta lại tự dành quyền phán đoán số phận đời đời của kẻ chết ? Tại
sao không nghĩ rằng những người tự tử không hẳn là đã hoàn toàn chối từ
Thiên Chúa, (mà có thì cũng không ai biết được, trừ một mình Chúa). Họ
chọn cái chết có thể vì những hoàn cảnh vô cùng khó khăn gặp phải
trong cuộc sống, hoặc những đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bất
công xã hội hay vì hoàn cảnh éo le, tuyệt vọng trong gia đình... đã
thúc đẩy họ chọn cái chết để tự giải thoát mà không biết đó là điều trái
nghịch với tình thương của Chúa là Đấng duy nhất nắm quyền sinh tử của
mọi người. Hơn thế nữa, tại sao lại muốn giới hạn lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, “ Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2 :4) để tự ý ban hành luật riêng của mình cấm cầu nguyện hay cho an táng người tự tử trong nghĩa trang của họ Đạo? Sau
hết, làm như vậy có giúp an ủi, nâng đỡ thân nhân người chẳng may đã
tự sát, hay là bêu xấu họ cách công khai trong giáo xứ địa phương, và do
đó, có thể làm mất đức tin của họ chỉ vì chủ chăn không biết cảm thương
và thực hành giáo lý mới của Giáo Hội dạy phải cầu nguyện cho những
người tự tử, nghĩa là không được phán đoán gì về số phận đời đời của họ
như đã trích dẫn ở trên. Lm Phanxicô Xaviê Ngô tôn Huấn
Tác giả:
Lm. PX. Ngô Tôn Huấn
www.conggiaovietnam.net
|