30/1/12. Xuân lạnh ngồi nhớ.. Đinh Kim Đạt.
Ngày Xuân ngồi lại nhớ
Cái thuả hãy còn.. thơ
Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một quê hương. Khi ra sống ở nước khác,
chúng ta mang theo trong lòng một giọng nói, một nụ cười, một khuôn mặt, một
màu áo, một hương vị, một góc đường … mà chúng ta không hề ngờ tới.
Chỉ khi nào bất ngờ vì một “hình ảnh”
nào đó thoảng qua, ta bỗng giật mình nhớ lại một người tưởng đã quên, một kỷ niệm
tưởng đã mất, một nơi tưởng đã không còn….. “hình ảnh” đó có khi chỉ là một cơn
gió, một vệt nắng, hay một
giọt mưa, một đụn cát hay một cơn sóng biển, một mầu trời hay một tiếng nói
mang âm hưởng của vùng quê ta, …lúc đó ta chợt nhớ lại làm hồi tưởng lại những
hình ảnh cũ đầy ắp những nhớ thương, kỷ niệm.
Tôi là người gốc xứ Thức hóa tỉnh Bùi chu (bắc Việt nam) hoàn toàn. Vì bố mẹ tôi đều là người Thức hóa với câu ”trâu ta ăn cỏ đồng ta” và giới hạn bởi con đê, lũy tre hoá, cộng với phương tiện đi lại khó khăn của những thập
niên đầu thế kỷ hai mươi nên có rất nhiều gia đình đã có chung một dòng tộc họ
Đinh (ba đời thông gia, bốn đời lấy nhau), trước đây tôi có nghe mấy anh khi đi lính lúc khai
lý lịch có người thắc mắc: “sao cả
bên nội lẫn ngoại đều họ Đinh”.
Bố tôi nhờ được tiếp xúc nhiều nên cũng hiểu biết hơn
vì thế cách nói chuyện cũng có nhiều thay đổi nhưng mẹ tôi thì vẫn giữ cách nói
của “con dân xứ Thức hoá” như khi nói về Thức hoá lại nghe như Thức Khoá hay ‘tiên sư’ thì lại là ‘tiên thư,’ con ‘trâu trắng’ thành con ‘tâu tắng,’ ‘sạch sẽ’ thành ‘thạch thẽ,’ ‘lớn lắm’ thành ‘nớn nắm’. Hay khi nhờ cháu “đi lấy thúng cho bà” người lạ nghe tưởng trong nhà bà có cả “kho hàng nóng.
Nhắc đến
những cách phát âm theo giọng địa phương trên không phải để mặc cảm, nhưng là để tự hào vì quê tôi tuy “nước mặn đồng
chua” với những bà mẹ quê ít chữ, nhưng lại có những chữ từ, chữ tâm, chữ nhẫn, chữ trung, chữ hiếu thì các bà mẹ quê muà lại thấu
hiểu cặn kẽ đến thế. Các bà mẹ đã
sinh ra và dạy dỗ qua gương sáng, sự hy sinh, lòng yêu thương vô bờ… để có được những người con, người cháu
thành công, thành danh với đời. Khi ở vào tuổi này nhiều khi tôi lại ước được nghe
những giọng nói quen thuộc đó.
Nhớ những ngày tôi còn bé, nhất là mỗi lần đau ốm, được bà ngoại và mẹ lo lắng, săn sóc, tôi lại càng
nhõng nhẽo. Lại nhớ những lần phải tới bệnh viện di cư Hố nai, Thánh tâm để khám bệnh và nếu phải tiêm mẹ tôi luôn
dỗ dành “đừng khóc tí nữa mẹ sẽ mua giò cho ăn” thế là sau đó mẹ tôi cõng tôi tới chợ Thái bình cách đó cả hai cây số, mua cho tôi một
khoanh giò nạc nóng, ăn vào miệng, sao nó
ngon đến thế. Rồi sau đó mới đón xe lam để mẹ con về nhà, lúc đó ngồi trên xe nhìn thấy hàng cây bên đường chạy
ngược, đến giờ tôi không thể nào quên được bờ vai, bước đi của mẹ, mặc dù mẹ tôi không còn nữa!
Nhớ những
đêm ngủ khi phải đi tiểu, ra ngoài thì “sợ ma”. lúc đó Bùi chu chưa có điện, nên đêm rất tối, bà ngoại luôn phải dẫn ra vườn và sau đó rót cho một
ca nước uống sao nó mát lòng và dễ ngủ làm sao? Mẹ tôi là con một nên bà ngoại rất thương các cháu. Khi còn bé tôi vẫn được bố mua bánh cao lâu, dẫn đi ăn phở, thường được nằm gối đầu vào cánh tay của bố, luôn muốn cho con đi học để biết cách sống vì “ít chữ
thì khổ lắm”, phải biết luôn cố gắng nhưng cũng phải biết chấp nhận…
Mỗi sáng sớm các bạn trong đội nghĩa binh đều đến từng
nhà gọi đi lễ để xếp hàng lấy vé thi đua. Sau nhà tôi có ông trùm Tạm sáng nào cũng vậy, cứ khoảng 3h30 là ông đã ra nhà thờ để chuẩn bị giật
chuông nhất, ông bước đi luôn có tiếng dép đập vào gót chân nên dễ
nhận ra, sau lễ chúng tôi lại về và đi thẳng ra vườn để bới cỏ
bắt dế nhất là mùa cuối năm lạnh, mang
theo “đèn bật bằng nhuôm có bấc” để chất cỏ vào đốt sau đó đứng hơ tay cho ấm nhưng về
nhà thì quần áo ảm mùi khói”. Lúc đó rất siêng năng thi nhau đi lễ sáng, tối đi chầu, thứ sáu viếng đàng thánh giá.
Khoảng thập niên 1960 lúc đó có phong trào áo dài bà
Ngô đình Nhu với guốc cao gót, trong
xóm có mấy chị rất mốt nên chúng tôi cũng hay đào lỗ giữa đường để cho mấy chị
bị té! Trong khi đi “phá
làng, phá xóm” sợ nhất là gặp ông chánh Xước, ông chẳng đánh, chỉ cảnh cáo, đứa nào chân tay bẩn bị ông nhổ nước bọt vào và về
phải tắm rửa ngay. Cũng có ông Quỷnh tuy lớn tuổi nhưng rất thương chúng
tôi, khi lễ về ngay nhà ông hay gọi vào cho uống nước và
nói chuyện, mỗi lần đi hớt tóc sợ ông trùm Thư, tóc rối mà bị ông chải và kéo tông đơ là muốn điếng
người, nhưng cũng vui vì nhìn miệng ông cử động theo nhịp
bóp tông đơ.
Chúng
tôi còn cùng nhau ra vườn làm trại nuôi dế, có núi đồi đường xe và những xe bằng gỗ, bánh bằng nắp bia bắt những con dế cơm bự hay con tắc
ké có thể tìm thấy những hàng rào dâm bụt, thi nhau chọi dế, đi bắt bướm về thả vào lồng nuôi, bắt cào cào, đào giun, đi câu cá, nhất là hè lấy chậu thau ra suối tát cá sau đó cũng
thau đó bỏ cá vào lấy đá kê thành bếp củi tại chỗ luôc ăn rất ngon. Lớn chút nữa lấy cây đẽo thành súng cột dây thung…bắn nhau! Đi xa hơn lên rừng hái táo rừng, bứa, có những dây leo có trái ăn chua ngọt. Vào mùa cuối năm đi kiếm gốc mai để dành đó gần tết sẽ
chặt về.
Đi học tiểu học thì chơi cõng nhau, chơi khăng, chơi bi, chơi tạt lon, hình. Lúc đó
trường học có mình ông Lộc ở Ngũ phúc đến bán kem bẹ, kẹo kéo, đứa nào có tiền mua rồi cho bạn cắn miếng. Gần mùa hè sân trường có hai cây phương cứ hái bông
ăn chua chua rất hay, bên sân
nhà thờ cũng có cây phượng lớn hoa nở đỏ một góc trời. Sau khi đã biết nhiều hơn, bước đầu
chúng tôi làm ”máy truyền tin” bằng loong sữa bò bịt bằng giấy nylon mỏng và nối với nhau bằng
dây chỉ, sau đó lại nối bằng dây điện thoại qua máy radio để hai nhà
liên lạc với nhau. Có khi nghịch hơn còn chế
súng gỗ, nòng súng làm bằng vỏ bút nguyên tử mà bắn đạn
carbine thật làm cho một đứa bị xé giữa ngón cái và ngón trỏ!.
Thấy người lớn chơi diều sáo vi vu như các ông phần
Y, ông Quỷnh, ông Khoản, ông Trác… chúng tôi cũng bắt chước kiếm tre làm khung nhưng giấy
thì dùng giấy bao xi măng, giấy báo, thi nhau làm lớn và dây thì khó kiếm vì đâu có nhiều
tiền như người lớn. Rồi
khi có được một ống vỏ đạn
canon đục một lỗ nhỏ chỗ một phần ba rồi cho đất đèn (carbonat calci) đổ thêm một chút nước và đóng nắp lại tay kia bịt lỗ
và lắc ống đặt xuống đất, hơ lữa trên lỗ
và bỏ chạy không quyên bịt tai thế là một tiếng nổ lớn và nắp ống bay ra hàng mấy
chục mét. Lúc đó may chưa xảy ra tai nạn nhưng ông ký Viên
không cho “nghịch dại” nưã,
nên nếu thấy ông với bộ quần
áo đen và gậy là chạy.
Khi lớn một chút thấy các anh đi lính với bộ quân phục
rằn ri về phép, nhìn oai hùng lòng cảm phục và ước ao lớn lên cũng
sẽ là lính nhưng khi chiến tranh ác liệt thấy những quan tài phủ cờ mang về lại
cảm thấy thuơng nhớ kèm theo sợ hãi! Cứ thế đi học đến tuổi 18 lại được hoãn dịch vì lý do học vấn để tiếp tục
học với ước vọng cao hơn thì chiến tranh kết thúc năm 1975 làm tiêu tán hết! Chúng tôi phải “nghỉ học lo đi kiếm cơm” suốt một thời gian dài “xã hội đảo lộn” làm cho con người sợ hãi, giảm ý chí phấn đấu, ra đường gặp những em thiếu niên khăn quàng đỏ chặn đường những anh “quần loe, tóc dài vào cắt”, đến đi làm ruộng cũng phải xin giấy phép, phải đi họp buổi tối, phải đi làm thủy lợi, thanh niên xung phong…nhưng rồi phải quen với nếp sống
mới. Dần dần đất nước có phong trào đổi mới, kinh tế khá hơn chúng tôi được ăn nhậu thường xuyên
và giao du với những bạn bè ở xa. Lúc nhậu
ở nhà cụ chánh Hiếu, ông trùm
Bằng thương tình về lấy bình rượu thuốc cho uống, khi nhậu ông trùm Đàm cũng
cho mượn trống của hội thánh Phêrô để cầm trịch hát trống quân và nếu anh nào bỏ “của chạy
lấy người’’ thì anh em sẽ dùng trống rước vào nhà để kiếm ngay
trong lúc nửa đêm, nhất là các dịp lễ tết các bạn tôi ai cũng có món
ngon để mời anh em thưởng thức.
Một buổi chiều đầu xuân với cái lạnh ba độ C tôi đi
bộ trên bờ đê dọc con sông dưới sương mù cộng với cơn gió bắc lạnh lùa vào mặt
khi nhìn về nhà thờ lớn của thị xã tự nhiên hình ảnh những người thân quen, họ hàng, bạn bè như hiện về với xứ đạo Bùi chu có nhà thờ
quét vôi màu vàng nhạt nằm dọc theo quốc lộ. Nhớ cha già cố Thức với bộ râu mềm và khuôn mặt hiền
từ. Bố xứ với cây gậy và nón nhựa. Cha cố Điện luôn tươi cười và nhanh nhẹn với xe mobillet
xanh. Ông trùm Am với bộ quần áo đen mái tóc ngắn, nhớ bể nước mưa sau phòng khách nhà xứ. Bốn khu Bắc hợp, Nam hòa, Đông bình, Tây lạc.
Nhớ trường
Minh đức với hai gốc phượng, chợ cũ với hai hàng tạp hóa của ông bà giáo Luyện và
trương Báu, ông bà bạ Viện, tiệm gạo ông bà phần Băng, tiệm bán xăng ông ký Chiêm, tiệm phở ông Chiêm, bánh mật bà phó Đoán, bánh cuốn bà Viết, bún bà Phòng. Nhớ những tiệm hớt tóc của ông trùm Kha, trùm Cường, phó Khương, nhà thuốc bắc của ông lang Riệm, giáp Trạc, tiệm bán sửa xe đạp của ông trùm Dụng, Khảm, tiệm đàn Thanh cầm của ông phó Chín, hợp tác xã dệt với hàng hàng máy dệt khung gỗ, xưởng dệt của ông bà cố Bẩm, ông trùm Chính, ông bà Tòng, bà Hùynh… với những cây lứa dài phơi chỉ trắng xóa. Mấy giếng nước viện trợ có bơm tay, hệ thống nước bơm…nhớ từng mái nhà, góc đường, những gốc đa, cây phượng, những hàng dừa cao vút, gốc vú sữa cổ thụ, xóm rau muống, xóm lò than, vũng voi đằm, vườn bo bo Phú sơn, suối cúng, vườn ổi nhà bà phó Khuê, ông trùm Tâm, trùm Tạm, vườn dưa hấu, cánh đồng lúa vàng nặng trĩu hạt Sông Mây với những chòi sẻo, chòi vó dương lên những cây tre như những cây bút vẽ
nên bức tranh tự nhiên thơ mộng được bao bọc bởi hai con sông lớn nhỏ nối với
nhau bằng suối đòn gánh với những địa danh như hóc ba Hiền, lô mười bà, gốc cây me …và cả những khúc đường sình lầy ở khu
Nam hòa, Tây lạc.
Nhớ những vị đã đến sống và khai khẩn xứ Bùi chu
ngay những ngày đầu tiên các cha gìa Thức, cha Điện, các ông chánh Căn, chánh Xước, cố Phác, cố Sắc, cố Hiếu, ông ký Húc, ông trùm Đống, phần Chử, quản Riễn, ông bà Phi, ông bà phần Xương ,ông trùm Phang, ông chánh Lương, ông bà ký Viên, xã Tường, xã Thụ, Ký,t rùm Vĩ, trùm Vấn, nhang Sinh, lang Chế, ông bà Khoa(giáo Bắc), ông bà chánh Tắc, ông bà trùm Ngọc, ông bà phó Ngoạn, Hai Cho, Tư Bân, ba Sình, bảy Bỉnh, sáu Lợi, năm Mạnh, hai Sắc…các thầy giáo Lan, giáo Ý, giáo Lung, giáo Tỵ, giáo Tập…
Nhớ nhớ lắm Bùi chu thân yêu nơi đã nuôi tôi khôn lớn
và cho tôi biết bao kỷ niệm đẹp. Xin cảm ơn Bùi chu trong đó trực tiếp có các đấng
sinh thành, đã nuôi nấng dạy dỗ tôi, các cha, các cụ đã tốn bao công sức làm cho Bùi chu ngày càng
đẹp hơn, các anh chị em,họ hàng, bạn bè những người quen biết đã giúp tôi trưởng
thành và đã luôn nhớ cầu nguyện cho tôi. Xin cho các vị đã quá vãng được hưởng ánh sáng ngàn
thu, xin cho những vị còn trên đường về quê trời luôn vui
khỏe và hạnh phúc. Xin cho xứ đạo thân yêu của tôi luôn phát triển và
người người luôn tha thứ, yêu thương nhau. Nhớ quá, Bùi Chu ơi! Đinh
kim Đạt
|