20-01-2006. Bài 4- Nghề dệt vải. Tiếng lách ca, lách cách, lịch phà, lịch phịch cứ đều khắp xóm ngõ ngày ấy, suốt từ sau khi tan buổi lễ sáng cho đến chiều tối, cứ đều khắp ở quê hương Bùi chu thân yêu ngày xa xưa ấy lại hiện về, khi tôi ngồi viết lại những ngành nghề mà dân quê tôi đã làm, cái nghề mà tôi muốn nói đến, đó là nghề dệt vải.
Chưa có điện, ở vào thới ấy, nên mọi khung cửi đều phải dùng người ngồi dệt, ai cũng có thể làm được, nhưng phần đông là phụ nữ, bởi vì thanh niên thì đi làm những việc nặng và nhiều tiền hơn. Nên nhà ai có đông con gái, cũng dành chỗ trong nhà để kê hai ba khung cửi, thường thì khung cửi do chủ họ đưa đến cho, nhưng nếu có tiền, ai cũng có quyền sắm một vài khung cửi. Vì nghề này chắc chẳng còn ai làm, vì nó đã được công nghiệp hóa, nay những ai hoài cổ mới nhớ về nó, nên tôi cũng ngồi ôn lại mà viết hầu góp chút tài liệu cho những ai muốn biết quê mình xưa sống ra sao, bằng nguồn lợi gì thì đọc cho biết. Khung cửi được đóng bằng gỗ, có hình thù như chiếc xe jeep, phía trước đeo một trục sợi dọc to tướng, có hai cái go để luồn chỉ qua treo ở giữa, rồi đến bàn suốt (?) nơi có con thoi chạy qua chạy lại, hai đầu bàn suốt có hai con chuột bằng gỗ, có cột giây để đánh cho thoi chạy, dưới gầm là trục vải, rồi hai bàn để đạp cho go lên xuống, cuối cùng, mới có thanh gỗ ngang dành cho người thợ ngồi. Khung cửi được đóng bằng gỗ, do những người thợ mộc lành nghề đóng rất khéo, với mộng, vược có chốt để tháo ra ráp vào, để dễ dàng di chuyển, mà chủ có thể đưa đến từng nhà thợ. Người thợ dệt, chỉ cần được chỉ cho mấy giờ là có thể thành thạo cách sử dụng và cách nối chỉ, hai tay thì một tay giật cho thoi chạy, một tay đưa bàn suốt ra vào, hai chân mỗi chân một bàn đạp cho go lên xuống, còn mắt thì kiểm tra xem có đường chỉ dọc nào bị đứt, bị rối không, coi như phải làm việc đủ cả tứ chi. Xuông xẻ, cứ đều đều, từng sợi chỉ nhỏ, chạy qua chạy lại mà một người thợ giỏi chuyên cần ngày có thể dệt được vài chục mét vải. Phục vụ cho ngành dệt, nào có người lo sợi dọc, sợi ngang, hồ sợi, phơi sợi, những sào sợi phơi trắng cả một khoảng sân lớn của những nhà làm sợi, rồi đánh suốt. Với những cỗ máy thô sơ cồng kềnh được nhiều nhà sản xuất vải kê gần hết khu nhà ở. Thường những máy dệt ngày đó do thô sơ nên cũng chỉ dệt được những loại vải sô, hay dệt vải may mùng (màn). Hàng dệt xong lại đưa về thành phố giao cho các chủ hãng lớn, để họ hồ lại cán rồi in hoa để thành loại vải Việt can may áo. Rồi lại nhận những bành sợi mang về gỡ ra hồ sợi quấn trục, đánh suất, dệt ra vải rồi lại đi giao. Sau này, có Hợp tác xã dệt Bùi chu, có mười cái máy nhập từ Nhật bản về đặt ở dẫy nhà phía trái nhà thờ, máy do mô tơ điện kéo, do gia đình ông bà phó Vượng, chị Cậy, anh Khiêm điều khiển chạy râm ran suốt ngày. Những nhà chủ có nhiều máy nhất ở Bùi chu ngày đó phải kể đến nhà cụ cố Ngô Văn Bẩm, nhà ông ký Đinh Văn Xiêm vv. Nhờ có những người đầu tư vào ngành dệt này mà nhiều thiếu nữ Bùi chu có công ăn việc làm trong suốt thập niên 50 ở quê hương mình ngày ấy. Rồi khi nhà máy dệt Thánh Tâm ra đời, đây là nhà máy dệt lớn nhất ở khu vực Hố Nai, đã thu nhận được một số chị em Bùi chu gia nhập vào đội ngũ công nhân chính thức của nhà máy, nên có một thời dân Bùi chu cũng đã sống nhờ vào ngành dệt vải. Trần Văn Minh. |