19-02-2006. Vài hàng về Hố Nai xưa.
Có một thói quen đã từ lâu, rất tự nhiên ăn sâu vào tâm khảm của mọi người, đó là: khi nói về nơi ở của mình, thường người ta hay nói đến khu vực lớn hơn nơi mình đang sống phụ thuộc, như là tỉnh thành, quận xã hơn là chỗ ở chính xác như ấp thôn, đường phố! Thế cho nên khi có ai hỏi: ông ở đâu? Thường câu trả lời sẽ là: tôi ở Úc, Cali, Sài Gòn, Hà Nội, Biên Hòa Hay Hố Nai vv. Hố Nai vâng, cái tên nghe quen thuộc lắm, nhưng không lớn lắm so với các nơi khác, thế nhưng không biết tường tận về nó, để có phải đi kiếm nhà người quen nào đó mà chỉ được họ nói cho biết là đang sống ở Hố Nai, cũng cả là một vấn đề khó khăn, nếu như không biết người bạn vàng ấy sống ở ấp nào! Để có những người khi biết tôi sống ở Hố nai, họ hay hỏi tôi có biết ông A, bà B không? Chịu, không thể nào tôi biết nổi người mà ai đó muốn hỏi. Nhân Giáo xứ Bùi chu cũng thuộc vào Hố Nai xưa, người viết xin dông dài mấy hàng về cái địa danh quen thuộc ấy. Mặc dù người viết ở Hố nai liền tù tì 37 năm liền, Nhưng cũng không thể biết rõ về Hố nai cho lắm. Do đó cũng xin đóng góp một tí chút thôi về những gì mình biết, xin mọi người thông cảm. Vậy Hố Nai nằm ở đâu? Có tự bao giờ? Ai xây dựng ra nó? Hố nai là tên gọi địa lý có từ rất lâu, nó nằm ở phía Đông của tỉnh Biên Hòa cũ, khi chưa có xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa thì Hố nai nằm dọc theo Quốc lộ số 1 tính từ Biên hòa đi xuống, đến Cây số 6 bắt đầu và chạy dài đến Cây số 17, với ranh giới thiên nhiên cũng bắt đầu là Suối Máu rất nổi tiếng (ở Cây số 6) kế đồn điền cao su của ông Nguyễn Thành Tây và cuối cùng là Suối Đỉa (Cây số 17). Một chiều dài 11 cây số với dốc đồi lên xuống cũng chạy dài theo khắp khu vực, nào dốc Cây số 6, dốc Bắc hải, dốc Thái bình, dốc Suối Cúng, Suối Đỉa mà ở vào giữa thập niên 50 phương tiên đi lại còn thô sơ, lên được những con dốc trên cả là một sự vất vả đến hết hơi. Với 11 cây số chiều dài, chia ra cho 17 ấp lúc đầu, trung bình cỡ gần cây số cho mỗi ấp. Nhưng nói tới Hố nai người ta hay nói đến xứ đạo hơn là nói tới ấp xã, vì khi đi ngang đây người ta chỉ thấy san sát những ngôi giáo đường, với những tháp chuông cao vút, chọc thẳng lên nền trời xanh ngát, để sáng sáng, chiều chiều rợp đường những tà áo dài muôn mầu của những người con gái xuân thì vui vẻ trên đường đến nhà thờ đọc kinh xem lễ, cùng với những chàng trai chững chạc trong những bộ âu phục sạch sẽ tươm tất sánh vai. Hố nai được thành lập các trại định cư cho dân từ Miền Bắc di cư vào Nam Năm 1954. Phần đông dân cư ở đây là người công giáo di cư, họ sống quây quần với nhau theo địa phương cũ ở ngoài Bắc, va để dễ tìm đến nhau, họ đặt tên làng xóm mới theo với tên của làng quê cũ, do đó ta mới được nghe danh những giáo xứ hay nhà thờ như: Ba động, Kim bích, Kẻ sặt 2, Phú tảo, Hải dương, Lộc lâm*, Bắc hải, Hào xá, Trung nghĩa, Nam hải, Đông xuyên, Phúc lâm*, Kẻ sặt 1, Trà cổ 2, Đại lộ, Hội am, Hà nội, Thánh tâm*, Đền thánh Martin*, Hòa bình*, Lộ đức 1. Đông hải 1, 2, Lộ đức 2 (Đồng lách), Tiên chu, Ngọc đồng, Ngô xá, Sài quất, Đền thánh Phanxicô, Ngũ phúc, Thái hoà*, Thanh hoá, Bùi chu, Văn côi, Phú sơn*, Tân thành*, Bắc hoà, Tân bắc vv. Cùng với các dòng Đa minh, Mến thánh giá, Gioan Thiên Chúa, Nazaret, vv. Chưa kể đến những nguyện đường nho nhỏ, những đền đài các thánh tại các giáo khu giáo họ cùng khắp các nơi trong vùng. Trong hơn 30 ngôi thánh đường ấy, ngày đầu có hai ngôi nhà thờ nằm song song với Quốc lộ số 1 đó là nhà thờ Thánh Tâm và nhà thờ Bùi chu. Sau nhiều lần xây dựng từ những nhà thờ bằng gỗ chuyển qua gạch, rồi xây dựng kiên cố, các nhà thờ về kiểu dáng cũng tương tự như nhau, như tháp chuông và hai mái, trong số này có hai ngôi nhà thờ mang sắc thái đặc biệt, đó là nhà thờ Sặt với lối kiến trúc đông phương và nhà thờ Bùi chu với hình tròn xoáy trôn ốc vút lên cao (rất tiếc ngôi nhà thờ này đã bị phá đi để xây dựng nhà thờ mới). Cũng có một số nhà thờ mà đi trên Quốc lộ 1 không nhìn thấy vì nằm trong xa như Đông hải 1 và Lộ đức 2, Hòa bình, Lộc lâm, Phúc lâm. Tuy nhiên, không phải nói tới Hố nai là chỉ kể đến những ngôi giáo đường, bởi vì, cũng còn có một ngôi chùa nằm ngay đầu xã lối từ Biên hòa đi xuống ngay cầu Suối máu với tên là chùa (?). Gần như tất cả những người dân sống nơi này đều gặp những khó khăn lúc ban đầu, đó là cuộc sống bị đảo lộn vì phần đông họ sống ở vùng châu thổ sông Hồng, nay lên vùng trung du Nam bộ sống với rừng chung quanh nên bỏ nghề nông nghiệp mà chuyển qua lâm nghiệp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, họ đã nhanh chóng định hình những ngành nghề thích hợp cho mỗi địa phương, như khu nào cho buôn bán, khu nào cho ngành tiểu thủ công nghiệp, khu nào cho nông nghiệp vv. Những phải mãi đến khi Hợp tác xã Điện nông thôn Đức tu ra đời năm 1965, những đường giây điện được kéo cùng khắp các ngõ ngách, thì Hố nai mới thực sự phát triển một cách nhanh chóng. Mỗi ấp có một nghề đặc trưng riêng biệt, bởi vì cứ người này làm thì rủ người khác làm cho có bạn, cho vui nên khi đến ấp nào cũng thấy một ngành nghề riêng như: Tân bắc có nghề đan lá buông, sau này có thêm nghề tiện đồ gỗ như bát điếu, giành tích, chân giường, đồ đóng tủ thờ vv. Qua đến Bắc hòa thì chuyên làm nghề rừng với xe bò kéo. Bùi chu thì bổ và đon củi, nông nghiệp, dệt vải. Thanh hóa cũng đon củi. Thái hòa chỉ mới lập ấp lúc sau này vì mới đầu nơi đây gọi là khu Long lạc, không có nước để sinh hoạt, ở đây chỉ có mấy nhà máy cưa của anh em ông Hồng, ông Sùng ở Thái bình xuống làm. Ngũ phúc không có ngành gì đặc trưng có nhà máy cưa của nhà Phương mập. Sài quất có nghề làm đũa tre, tăm, que nhang. Ngô xá chăn nuôi. Thái bình thì nhiều nghề hơn gồm mộc, buôn bán, lâm nghiệp mà nhiều nhất là máy cưa, xe cần câu nhất là sau khi có hệ thống điện, Hòa bình, Lộ đức. Tiên chu, cũng là khu vực tiểu thủ công nghiệp chuyên về ngành mộc, Đông hải 1 và Lộ đức 2 chuyên về nông nghiệp nhưng thanh thiếu niên thì ngày ngày ra các ấp bên ngoài làm mộc. Thánh tâm thì nguyên một nhà máy dệt lớn thu hút gần hết thanh nữ trong ấp, ở đây cũng có nơi trồng rau xanh, đan cót, hàn tiện, sau này thêm nghề làm tinh bột. Hà nội có nhà máy cưa Thiên thành nổi tiếng của cụ Nguyễn Minh Châu sau trở thành dân biểu quốc hội. Sặt chuyên buôn bán, nhất là sau này có đường xa lộ nối vào càng sầm uất hơn với các đại bài buôn bán gạo cung cấp cho cả một vùng lớn. Xích lên chút nữa thì Đông xuyên với những quán thịt chó và những xâu bánh gai, bánh mật, Trà cổ làm tinh bột và chăn nuôi với những trại heo lớn. Và cuối cùng khu Kim bích với những phên bánh tráng phơi đầy. Rất lạ, một sự ngẫu nhiên là hai đầu Hố nai thì không phát triển bằng khu vực giữa, nhất là khu vực Ngọc đồng khi ở đây chuyển qua làm máy cưa và khai thác lâm sản, đương nhiên là có làm gỗ lậu với một đoàn xe cần câu hàng mấy chục chiếc vận chuyển ngày đêm ở mọi khu vực từ xa chở về nhất là miệt Rừng lá, Long khánh. Gỗ cưa xẻ xong thì lại phân phối đi khắp nơi có nhu cầu, nên đây là nơi có những sinh hoạt làm ăn phát triển mạnh mẽ, sầm uất nhất kể từ khi bắc được cây cầu nối khu đài Đức Mẹ qua khu đồi phía sau, để thiết lập khu công nghiệp với những nhà máy cưa lớn nhỏ. Xe cộ ra vào như mắc cửi, xe lớn như xe cần câu, nhỏ như xe ba gác, xe lam bỏ thùng phía sau thành xe bàn loại nhỏ vv. Với ba ngôi chợ mọc lên ở ba nơi mà nổi tiếng là chợ Kẻ sặt, chợ Thái bình và chợ Bùi chu, cả ba ngôi chợ đều nổi tiếng buôn bán tương đối sầm uất và phát triển cho đến tận bây giờ. Nhưng đáng kể nhất vẫn là chợ Kẻ sặt, Khi xa lộ Sài gòn Biên hòa được mở, một đầu nằm ngay khu Sặt, nên ngã ba này cũng được gọi là ngã ba Sặt, thì nơi này càng trở nên sầm uất hơn, vì ở đây hầu như có truyền thống buôn bán cả làng, mà trong dân gian hay đùa với nhau là lấy vợ Sặt thì chỉ cần ở nhà nấu cơm cho vợ, còn tiền bạc thì do vợ kiếm, chồng chẳng phải nghĩ suy gì về tài chánh gia đình. Đến nay Chợ Sặt còn là chợ đầu mối giao lưu hàng hóa cho cả vùng, chợ này hoạt động từ nửa đêm cho đến sáng, bởi vì đây là thời gian thuận tiện nhất, xe cộ lưu thông ít, người cũng không còn mấy ai đi lại vào giờ khuya khoắc này. Nên xe cộ chở hàng dễ lên xuống hàng, để phân phối hàng hóa cho bạn hàng mang về các chợ nhỏ khác. Chợ Thái bình xây thì kiên cố hai tầng, nhưng do nằm cuối con dốc cao nên rất nguy hiểm cho người đi mua sắm, thường lấn chiếm ra ngoài mặt lộ, đã thường xẩy ra tai nạn tại đây. Trên lầu thường vắng khách do ngại leo lên lầu cũng có, do chưa và không quen với những sinh hoạt theo lối hiện đại, nên phía trên lầu khách khứa lèo tèo vắng vẻ hơn phía bên dưới tầng trệt rất nhiều. Ngoài những vấn đề sinh hoạt bình thường hàng ngày, để nhắm tới tương lai cho con cháu, các vị lãnh đạo tôn giáo đều chú tâm đến phát triển giáo dục, hầu nâng trình độ dân trí lên cao, và khuyến khích các em tiếp tục con đường học vấn. Các trường tiểu học công lập đã có chính phủ thành lập hầu hết ở các ấp, riêng về các lớp trung học thì chỉ có trường Ngô quyền ở Biên hòa là trường trung học công lập của tỉnh, học sinh được nhận vào rất hạn chế vì không đủ chỗ, nên Hố nai mới có các trường trung học tư thục Thánh tâm ở ấp Thánh tâm, Minh đức ở Hà nội, Lasan ở Ngọc đồng và trung học Bùi chu ở Bùi chu thế mà trường nào cũng đông đúc học sinh tới học, chứng tỏ sự hiếu học của học sinh Hố nai. Sau một thời gian dài mới có thêm trường Minh thế ở Bắc hải và một trường tỉnh hạt ở ấp Hải phòng. Tất cả các trường trên đều gọi là trường trung học đệ nhất cấp có đến lớp đệ tứ (tức lớp 9 hiện nay) và cũng do các cha làm hiệu trưởng. (ghi chú viết về thời trước Năm 1975.) Hố nai cũng có một nhà thương rất nổi tiếng, với tên gọi lúc đầu là Bịnh viện Di cư, mà dân chúng hay gọi là nhà thương Thánh tâm vì nó được xây dựng ngay ấp Thánh tâm. Do các thầy dòng Gioan Thiên Chúa xây dựng và trực tiếp phụ trách chữa trị, các thầy là tu sĩ từ Canada qua, nói tiếng Việt cùng với các thầy Việt nam. Sau này do nhà nước quản lý và đặt tên là Bệnh viện Thống nhất. Mặc dù có rất nhiều linh mục lãnh đạo ở các xứ đạo ở Hố nai, có nhiều xứ có hai, hay ba cha, nhưng chỉ có một số cha nổi bật về sự lãnh đạo và giao tế mà đáng kể như các cha: cha Hiền ở Hà nội, cha Phạm Đức Sự ở Ngọc Đồng, Cha Bằng ở Hòa Bình, Cha Điện ở Bùi chu, cha Nam ở Phúc lâm, cha Sâm của trường Thánh tâm. Người viết không biết hết được tên các cha nhưng mấy ấp kế cận thì còn nhớ như ở Xứ Thanh hóa cha Nguyễn Hồng Cẩm nổi tiếng chữa bệnh, Bắc hòa cha Ngự nổi tiếng cuốn sửa mô tơ, Tân bắc cha Lạc. Hố nai, cái tên sắp mất trên lãnh vực hành chánh, bởi vì sau Năm 1975, Hố nai chia ra làm 4 xã. Được mấy năm thì hai xã Hố nai 1 và Hố nai 2 sát nhập vào Thành phố Biên hoà và đổi tên mới, thành Phường Tân biên, Phường Tân hòa. Vào giữa thập niên 90, Hố nai 4 chia làm hai xã là Bình minh và Bắc sơn, như vậy nay chỉ còn có Hố nai 3 là xã duy nhất còn dùng tên Hố nai cho đơn vị hành chánh cũ. Hố nai sắp mất tên! Sau hơn 50 năm thành lập. Cũng cần nhắc đến một số nhân sĩ của Hố nai xưa như các ông: Đỗ Văn Sỹ, ông Nguyễn Văn Truyền, Cụ Trương Đường, ông Trần Thu Lương, ông Ngô Ngọc Anh, ông Nguyễn Xuân Phiệt, Ông Tỉnh, cụ Nguyễn Minh Châu, ông Nguyễn Bi, ông Hưu vv. Xin có vài hàng vui vui về vùng Hố nai xưa. (trích trong truyện Giây t ơ hồng) “Tại những ngày còn cắp sách đến trường, con đường dài hơn 5 cây số, có những khu buôn bán ngang hai bên đường, mà mỗi nơi bán một thứ riêng biệt, tuổi học trò tinh nghịch, tiếu lâm mới đặt để ra nhiều cái tên thêm vào cho từng khu vực, để biến Hố Nai thành 36 phố phường cho giống Hà Nội xưa, cũng cho vui. Nên nào Phố hàng phân trên đầu con dốc, bởi vì mọi cư dân hai bên đường họ đều nuôi heo, mà sau nhà họ lại là đường chính Số 1, nên những hầm phân cạnh đường, bốc mùi tỏa ra không gian mênh mông, khiến bọn học trò, chỉ đi qua thôi cũng hơi bị ngạt, nhất là vào những buổi trưa nắng, khi nhà nhà tắm heo, vào lúc mà cả bọn phải đạp xe ngược dốc về nhà. Hắn chợt nhớ lại, có một lần, tại khu vực này, có một chiếc thiết vận xa, chạy đến đây bị đứt xích bánh, nó đâm vào thành vách đất hai bên đường, ai dè đụng nhằm vách hầm phân, ôi khỏi phải nói, mấy người lính chạy còn hơn chạy giặc, phân cùng nước tuôn ra đường lênh láng, hôi thối cùng cực, cả khu vực mất đến mấy ngày mới diụ, nhớ đến anh lại mỉm cười, và người bạn ngồi sau lại đấm vào lưng hắn mấy cái. Rồi phố hàng nứa ngay giữa dốc Thái Bình, kế đến là phố hàng cừ, suôi thêm nữa là phố hàng mộc, hàng tiện, hàng tủ, hàng giường, hàng hòm, (Khu Hoà Bình, Lộ Đức,) hàng dệt, hàng cót, (Thánh Tâm) hàng thịt chó của những bà Thoảng, anh Chỉnh khu Đông Xuyên có các bà hút thuốc lào xòng xọc, hàng bánh đa, bánh gai, bánh mật, hàng lá đan vv.” Có nhiều chuyện lắm nhưng người viết xin ngưng, vì giờ Hố nai thay đổi qúa nhiều. Tháng 2 Năm 2006. Trần Văn Minh.
|