31-3-06. Những chiếc quạt trần. (Viết tặng ông bạn Lữu ở Mỹ.) Đang ngồi trước máy vi tính đã được nối mạng, tôi thử nói chuyện với con tôi ở bên Anh quốc, tôi nói cháu nói đi thì tiếng nói phát ra từ loa không phải của cháu, mà tiếng nói từ loa lại là tiếng nói của người bạn tên Lữu ở Mỹ, thì ra anh bạn muốn nói chuyện online với tôi.
Sau khi thăm hỏi qua về sức khỏe của nhau, chúng tôi bắt đầu đấu láo và chuyện ngày xưa còn bé lôi chúng tôi về với kỷ niệm. Từ chuyện tạt hình, búng bắn bi, bắn gẩy thung, đánh đáo lỗ, bật tường, đánh vòng xe chạy rong, làm súng, mỗi câu chuyện lại đưa chúng tôi về một kỷ niệm vui, những tiếng cười sảng khoái của hai anh bạn gìa cứ vang vang khắp nhà, khiến bà xã tôi cũng đâm thắc mắc. Từ chuyện nọ liên quan đến chuyện kia, người bạn tôi cứ lôi anh bạn chung của cả hai chúng tôi ra mà tố khổ. Với giọng nói trong trẻo ngập ngừng đứt đoạn, Lữu cứ kể tội ông cả Rụ nhà tôi: Sao ông Rụ ông ấy lớn hơn mình có mấy tuổi mà ông ấy khôn thế, chơi tạt hình, ông ấy thấy tôi có đôi dép mới, ông ấy bảo dép mới tạt không ngon, ông ấy bảo tôi đổi dép cũ của ông ấy tạt mới ngon. Rồi hình mình xếp ông ấy bảo mày phải nén sát xuống tạt nó mới văng ra nhiều, mình nghe theo ông ấy, khi tạt nó sát qúa đâu có trúng, đến lượt ông ấy ông ấy lại để lổm chổm nên tạt dễ trúng mà hình văng ra hết, nghĩ lại sao hồi ấy tôi ngu thế! Nói xong Lữu lại ré lên cười. Tôi đùa với bạn, vậy bây giờ chắc ông khôn rồi, liệu có được chơi lại các môn chơi cũ, ông có khôn hơn và thắng được ông Rụ không? Ông bạn tôi lại hế hế cười và phán: chịu, không thể nào tôi hơn nổi ông ấy, vì ông ấy nhiều tài lắm, từ đàn địch, trò chơi thứ gì ông ấy cũng có khiếu hết và chơi rất tài tình. Sau cùng, tôi nhắc lại với bạn một kỷ niệm mà bạn khó quên là chiếc quạt trần. Mới nghe qua anh bạn đã phá ra cười, ừ đúng rồi, những chiếc quạt treo trên trần nhà ngày ấy. Nhất làng đấy, bạn tôi hơi hãnh diện đùa nên nhấn mạnh và cao giọng nói: “hình như chỉ có mình nhà tôi có chứ bộ chơi đâu.” Không biết chắc lắm, nhưng qủa có đúng như thế thật. Chẳng biết ở Bùi chu vào cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 có bao nhiêu nhà chế ra những chiếc quạt treo trần, riêng tôi thì biết đích xác hai cái quạt treo lên trần nhà. Một thuộc nhà cụ lang Xưng, và hai là nhà cụ Trùm Vỹ. Ở nhà cụ lang Xưng có treo một cái quạt mà người mình gọi là quạt buồm, nó lớn như cái chiếu treo ngang gian giữa. May bằng vải có may các đường ống để luồn cây làm xương bên trong từng đoạn, trông như cái buồm của thuyền buồm, nên được người ta gọi luôn là quạt buồm. Mép dưới có cái cây ngang giữ cho mép quạt thẳng và dễ cột giây để khi kéo quạt bay qua, bay lại đảo không khí tạo ra làn gió mát, trên trần nhà cụ lang còn đặc biệt có một bức họa do cụ trùm Ô vẽ, hai bên hai Thiên thần và hình ảnh Chúa bằng sơn trên nền cót. Khi có khách đến chơi hoặc khách đến để xin coi mạch bốc thuốc. Cụ lang ngồi tiếp khách thì bà lang ngồi kéo quạt, tay cầm sợi giây kéo thả như người đưa võng. Sở dĩ tôi biết rõ việc này là nhờ ngày nhỏ học chung với ông trùm Hiệu bây giờ, mà ông trùm Hiệu là cháu nội của cụ lang. Nhà cụ trùm Vỹ thì cái quạt tối tân hơn, có ba cánh rất hiện đại, giống như những chiếc quat trần điện bây giờ, nhờ ở cụ khéo tay và lại biết làm mộc, cụ tạo ra cái quạt chạy xoay tít. Với những hiểu biết của tôi bây giờ thì thấy chẳng có gì là đặc biệt, nhưng ở vào độ tuổi con nít ngày ấy, đầu óc ngù ngờ, lại chưa bao giờ được tiếp cận với đời sống văn minh, thấy chiếc quạt quay tít, thì lòng khâm phục vô cùng, vì chẳng hiểu làm sao mà nó quay tít được như vậy? Trở lại với ông bạn Lữu nhà tôi, khi nhà bạn có khách, ông cụ bật công tắc quạt bằng cách khẽ gọi “Luư ữ. u”, nghe tiếng bố gọi, dù đang làm gì, chơi ở trước sân nhà, hay ở phía sau bếp, anh bạn tôi phải biết ý bố ngay. Tuy không dám cãi bố, nhưng xem ra trong lòng rưng rưng tiếng hát bản “ngậm ngùi” khổ nỗi, bản ngậm ngùi với lời ca là để: “em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây, lòng anh mơ với quạt này, trăm con chim mộng về bay đầu giường..”. Còn bạn tôi thì “xin bố cứ nói chuyện con hầu quạt đây, lòng con khổ với quạt này, năm ba đứa bạn đợi con ngoài đường..”. Rồi bạn tôi vội vàng đưa tay với lấy cây sào tre để sẵn ở góc nhà ra mồi cho quạt nhè nhẹ có trớn xoay, rồi buồn bã đi vào trong buồng ngồi cầm giây cũng giật thả cho chiếc quạt làm việc. Để kéo cho quạt quay bạn tôi cũng đã được tập dợt nhiều lần, lúc nào buông, lúc nào kéo cho nhịp nhàng để quạt quay trơn tru. Thật ở cái tuổi còn vô ăn vô lo, cực chẳng đã mới phải ngồi hầu quạt, vì vừa ngồi kéo quạt mà bạn tôi lòng dạ rối bời, đầu óc còn đang tiếc mê mẩn với trò chơi, mà đành phải bỏ dở, để vào nhà hầu quạt, trong khi mấy ông bạn nhóc còn đang muốn níu kéo thập thò đứng đợi ngoài cửa, nháy nhó rủ rê chơi tiếp. Gặp ngày khách ghé qua chút rồi đi ngay còn đỡ, chứ gặp ông khách chơi lâu thì cực ơi là cực, vừa buồn ngủ mà vừa mỏi tay, khách mát mẻ, còn mình thì nóng nực, nên trong lòng thầm nguyền rủa cái quạt thổ tả đã hại ta. Kể đến đây hai anh bạn gìa lại ré lên cười khẹc khẹc. Ôi những kỷ niệm của cả một thời con nít. Ấy vậy mà từ chuyện nọ sọ sang chuyện kia. Lữu lại nói tôi phục mấy bà rê lúa, họ kẹp chiếc chiếu vào giữa hai chân rồi dùng hai tay cầm hai mép chiếu giăng ra kép lại nhanh nhanh mà ép ra làn gió mạnh ra phết, thổi bay được những rác rưởi cùng những hạt thóc lép bay đi, còn những hạt thóc mẩy nằm lại sạch bong. Hay cầm cái quạt rất lớn, bằng giấy dầy dán trên cái khung tre cũng gọi là quạt buồm nữa, vì nó có xương tre. Giờ điện đóm đầy đủ, quạt trần, quạt bàn, máy nóng máy lạnh chẳng còn thiếu thứ gì, kể lại cái được gọi là văn minh hiện đại của ngày xa xưa ấy sao mà thấy mình quê một cục. Lữu lại phá ra cười khẹc khẹc, hế hế… 3-06. Trần Văn Minh. |