MINH TRAN Xin nhớ về một người:
Nhân ngày giỗ 24 Tháng 5, xin đọc lại bài tưởng nhớ đến một người.. Chắc chẳng có người nào sống ở cái xứ Bùi Chu Hố Nai này mà lại không biết ông Trùm Am nhỉ?
Không tu hành nhưng cả đời ông là một người sống độc thân để đi theo Chuá. Chẳng biết ông bỏ nhà đi theo các cha từ ngày nào, nhưng khi có cái xứ Bùi Chu này thì mọi người đều đã thấy có ông. Ông ở trong xứ, lại ở trong nhà cha nữa nên người ta mới gọi ông là ông trùm, gọi riết thành quen, mà chức tước với ông không thành vấn đề, nhưng hơi đâu mà ông cải chính. Ngay từ ngày còn nhỏ ông đã đi theo và là đệ tử của cha Giáo Thức, người đã có công xây dựng ra Giáo xứ Bùi Chu. Vì thế ông được cho ở luôn trong nhà xứ, phiá phải nhà xứ có một dẫy nhà, vừa được dùng vào việc làm nhà ăn, vừa được dùng để làm nhà kho để tượng ảnh cùng các dụng cụ dùng cho việc thờ phụng. Ông được dành cho một gian cuối ngay bên phòng ăn, với chiếc giường một đơn sơ, trải lên trên là manh chiếu một, chiếc chăn mỏng gấp gọn gàng đặt ngay ngắn dưới cái gối mây đan. Trên tường, trên mặt bàn làm việc treo hay để đầy các loại đồng hồ, của bà con trong xứ đạo đưa đến nhờ ông sửa. Gia tài của ông hình như chỉ có vậy. Đầu hớt tóc ngắn, loại tóc ba phân phiá trên thẳng nay người ta gọi là tóc hớt kiểu "đầu đinh". Mặt mũi sáng sủa hiền lành, toát ra vẻ phúc hậu hiền hoà dễ mến, chẳng mất lòng một ai trong xứ đạo. Người tầm thước trung bình, đạo mạo nhưng vui vẻ. Lúc nào cũng thấy ông mặc một chiếc áo khách có hai túi dưới rộng, nó như hai cái túi đựng dụng cụ nhỏ của ông thì đúng hơn, trong túi đựng lủng củng những dụng cụ nhỏ mà khi nào ông cần đến là có ngay, để ông có thể sẵn sàng sửa chữa bất cứ một công việc gì và đủ mọi loại khi cần. Khi ông đi những dụng cụ này cứ đung đưa theo nhịp ông bước, nên ông cứ phải đưa tay giữ túi áo lại. Cùng xuề xoà với chiếc quần ta lai lớn, lẹp kẹp đôi dép da. Nhiệm vụ của ông là giúp dọn dẹp bàn thờ cho các buổi lễ, lo rượu lễ, bánh lễ, trải khăn bàn thờ theo các buổi lễ, sắp xếp tượng ảnh cho các lễ quan thầy, mở kho cho các hội đoàn lấy kiệu, lấy trướng, lấy cờ. Tập cho các cậu giúp lễ. Châm dầu đèn, sau này lo thêm máy phát điện và lo phần ánh sáng trong khu vực nhà thờ. Nghiã là ông phụ trách đủ mọi công việc thờ phượng của xứ đạo. Những khi gần hết bánh lễ, ông cũng có nhiệm vụ lo làm bánh lễ. Ngày đó xứ nào thì lo bánh phụng vụ riêng cho xứ mình, không như ngày nay đã có các nhà dòng cung cấp cho theo nhu cầu. Để làm bánh lễ, ông lấy bột mì hoà nước, rồi dùng một bàn kẹp nướng để làm những tấm bánh trắng tinh mỏng dính. Chúng tôi ngày còn nhỏ, ở độ tuổi nghiã binh hay mò vào nhà xứ, chỗ ông ở chơi, xem ông sửa đồng hồ. Căn me nếu ngày nào ông làm bánh, xin phụ ông cắt bánh để được xí phần rià dư của tấm bánh. Chúng tôi được chỉ cho cách cắt bánh. Ông có cái máy dập khuôn bánh bằng đồng, trông như con thỏ, dưới có một cái khuôn thủng tròn như đồng xu, phiá trên có cái cây hình trụ cũng tròn bằng với lỗ bên dưới, trên gắn cái cần bẩy, đưa chiếc bánh to bằng hai bàn tay vào cứ dùng tay đè cây cần xuống là những chiếc bánh nhỏ như đồng xu được đục thủng từ những tấm bánh lớn rơi nhẹ xuống dưới khay, khi đục hết phần thịt bánh, chiếc bánh lớn còn lại chằng chịt lỗ thủng, chúng tôi gom lại vo viên bỏ vô miệng ăn, ngon lành đáo để. Rảnh rỗi, ông lại lôi những chiếc đồng hồ của bà con nhờ ông sửa hay lau dầu ra sửa chữa. Lúc này thấy ông ngồi im tay cầm đồng hồ, tay cầm một cái tô vít nhỏ loại đặc biệt, trên một mắt ông lồi ra với chiếc kính hiển vi đen thui dài cỡ ba bốn phân trông cũng ngồ ngộ. Chẳng biết ông có học ở đâu không nhưng cái gì ông cũng biết làm. Cỡ cuối thập niên 50, nhà xứ có một máy phát điện, cái máy nổ hiệu Dai Dong 15 ngựa chạy dầu diesel nổ bành bạch nghe đến đinh tai được để ở dẫy nhà dệt phiá trái nhà thờ, ông có trách nhiệm trông coi, châm dầu châm nhớt, cho máy chạy, thường là máy phải quay bằng tay để khởi động máy. Ngày nào máy lì không nổ, ai đi qua cũng nhìn thấy ông mồ hôi ướt đẫm đứng dựa cửa thở, may mà lúc đó có tay thanh niên nào đi ngang qua chạy vào quay giúp, chứ máy thì nặng, cứ một người quay máy một lần là đã đủ hụt hơi, lần thứ hai là hết sức, còn có phải quay nữa thì coi bộ yếu sìu, quay không đủ tua, mà cái máy cũng khó tính, nó sẽ không chiụ nổ cho những người quay nó yếu sức. Máy hư ông cũng tự tay tháo ra sửa lấy, như thay bạc, thay dên, khó khăn lắm, ông mới nhờ đến ông thợ máy trong ấp là năm Nghiã sửa dùm. Rồi điện đóm, trang trí trong ngoài nhà thờ khi có các lễ lớn trong xứ đạo, các đoàn thể cứ ra vào kiếm ông liên tục, người hỏi ông để lấy cái này, cái kia hay xin ông chỉ cách thức để làm cho đúng ý cha xứ dặn, chẳng có công việc gì mà không có ý kiến ông. Ai làm gì thì ông cũng phải đứng ra giám sát, chỉ bảo dặn dò cẩn thận ông mới yên tâm đi làm việc khác. Khi cha giáo Thức về hưu, ông cũng còn khỏe lắm nên không theo chân cha về nhà hưu dưỡng, ông chọn ở lại để phục vụ tiếp giáo xứ cùng với cha xứ Andrê. Lúc này, công việc ông lại tăng thêm vì cha xứ xin được hệ thống máy bơm nước với giếng khoan sâu để lấy nước ngầm. Ông được trao thêm nhiệm vụ lo việc nước cho dân, mỗi buổi sáng, sau khi thánh lễ kết thúc, ông ăn sáng xong là ra cho máy chạy để bơm nước lên bồn chứa, khi nước đã bơm đủ ông mới mở vòi cho dân đến lấy nước về dùng, dù nắng hay mưa, lúc nào ông cũng chu toàn mọi trách vụ. Hàng tháng, ông còn dành ra một ngày để lên thăm viếng cha già cố, thể hiện tình cha con gắn bó keo sơn, chung thủy. Ngày tháng cứ dần trôi, mái đầu ông không còn đen nữa, nó đã đổi ra mầu tuyết trắng tinh, bước đi đã chậm chạp, cũng may đời sống chung cũng đã được cải tiến, được nâng lên, các phương tiện dùng trong sinh hoạt cũng hiện đại hơn, nhẹ nhàng hơn, nhiều người giúp đỡ hơn, nên ông cũng bớt đi được nhiều công việc chung nặng nhọc. Giờ thì ông đã phục vụ qua ba đời cha chánh xứ, ông được trao ban trách vụ thưà tác viên cho giáo dân rước thánh thể, với chiếc áo thụng trắng mặc ngoài rất nghiêm trang, đạo mạo, nhiều người từ nơi khác đến cứ tưởng như ông là một linh mục già trong giáo xứ. Tôi đi xa, chẳng thân thiết gì nhưng khi ngồi viết về xứ đạo, nhớ tới các vị linh mục tôi không thể nào lại không liên tưởng đến những liên hệ mà ông đã gắn bó với các ngài, do đó, nên không thể nào nhớ về xứ đạo mà lại không nhớ đến ông. Nhớ đến ông vì ông không của riêng ai, vì ông là người của mọi người, vì ông là của chung, của xứ đạo. Khi hỏi ra thì ông đã trở thành người thiên cổ, ông đã về cùng Chúa, không anh em, không con cháu, không họ hàng, sống hết mình, sống cho xứ đạo, sống vì xứ đạo, có ai trong chúng ta có còn nhớ tới ông, một người đáng kính, viết về ông mà tôi chẳng có nhiều những chi tiết, những dữ liệu, những giai thoại về con người hiền lành, bình dị ấy thật là một thiếu sót, một điều rất đáng tiếc, nhưng tôi phải viết, dù mấy dòng cũng đủ để nói lên tiếng nói với vong linh ông là cũng còn có những người nhớ tới ông, nhớ tới một người đã âm thầm sống cho xứ đạo. Ông qua đời Ngày 24 Tháng 5 Năm 199.. Linh hồn Phê rô Sanen. Melbourne ngày 10 tháng 02 năm 2004. |